Thiết kế và chế tạo SMS Friedrich der Große (1911)

Sơ đồ mô tả lớp Kaiser, vùng màu xám là khu vực của con tàu được bảo vệ bằng vỏ giáp

Được đặt hàng dưới cái tên trong hợp đồng Ersatz Heimdall[Ghi chú 2] như là sự thay thế cho chiếc hải phòng hạm Heimdall đã lạc hậu,[3] Friedrich der Große được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng AG VulcanHamburg vào ngày 26 tháng 1 năm 1910.[4] Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 6 năm 1911,[2] trong một buổi lễ mà Công chúa Alexandra Victoria đã đỡ đầu cho con tàu và Thống chế Colmar Freiherr von der Goltz đọc bài diễn văn chính.[5] Sau đó nó được chuyển đến Wilhelmshaven và được đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày 15 tháng 10 năm 1912; được tiếp nối bằng các cuộc thực tập tại biển Baltic. sau đó đi đến Kiel cho các hoạt động trang bị sau cùng, và đến ngày 22 tháng 1 năm 1913 nó sẵn sàng để hoạt động thường trực.[2] Con tàu đã làm tiêu tốn một chi phí 45.802.000 Mác vàng của Chính phủ Đức.[1]

Con tàu có chiều dài chung 172,4 m (566 ft) và trọng lượng choán nước tối đa 27.000 tấn (27.000 tấn Anh; 30.000 tấn thiếu); mạn thuyền rộng 29 m (95 ft), độ sâu của mớn nước trước mũi là 9,1 m (30 ft) và sau đuôi là 8,8 m (29 ft). Friedrich der Große được dẫn động bởi ba bộ turbine AEG Curtis, được cung cấp hơi nước từ 16 nồi hơi đốt than, cho phép đạt được một tốc độ tối đa 22,4 hải lý trên giờ (41,5 km/h; 25,8 mph) khi chạy thử máy. Nó mang theo 3.600 tấn (3.500 tấn Anh; 4.000 tấn thiếu) than, cho phép có được tầm hoạt động tối đa 7.900 hải lý (14.600 km; 9.100 dặm) ở tốc độ đường trường 12 kn (22 km/h; 14 mph). Friedrich der Große được bảo vệ bằng vỏ giáp Krupp mạnh; đai giáp chính dày 350 mm (14 in) phía giữa tàu và tháp chỉ huy có mặt hông dày 400 mm (16 in). Các tháp pháo có mặt hông dày 300 mm (12 in). Giống như những chiếc cùng lớp, Friedrich der Große mang theo lưới chống ngư lôi cho đến sau trận Jutland vào năm 1916.[1]

Friedrich der Große được trang bị dàn pháo chính gồm mười khẩu pháo SK 30,5 cm (12,0 in) L/50 đặt trên năm tháp pháo nòng đôi.[1] Con tàu từ bỏ cách sắp xếp dàn pháo chính hình lục giác không hiệu quả trên các lớp thiết giáp hạm Đức trước đây; thay vào đó, ba trong số năm tháp pháo được bố trí trên trục giữa con tàu, với hai chiếc sắp xếp bắn thượng tầng phía đuôi. Hai tháp pháo còn lại được đặt lệch hình thang giữa tàu, có thể bắn qua mạn.[6] Con tàu còn được trang bị mười bốn khẩu pháo SK 15 cm (5,9 in) L/45 trong các tháp pháo ụ giữa tàu, tám khẩu 8,8 cm (3,5 in) SK L/45 trong các tháp pháo ụ nhưng được tháo dỡ trong chiến tranh và thay thế bằng bốn khẩu 8,8 cm L/45 phòng không. Ngoài ra còn có năm ống phóng ngư lôi 50 cm (20 in), tất cả đều được bố trí trong lườn tàu.[1]